Trong bối cảnh biến thể Delta với khả năng lây nhiễm mạnh thách thức nỗ lực kiểm soát đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, có một câu hỏi đặt ra là virus sẽ phát triển theo hướng nào trong thời gian tới.
Trong bối cảnh biến thể Delta với khả năng lây nhiễm mạnh thách thức nỗ lực kiểm soát đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, có một câu hỏi đặt ra là virus sẽ phát triển theo hướng nào trong thời gian tới.
Các nhà khoa học đồng tình rằng các biến thể mới của virus SARS-CoV-2 có thể sẽ liên tục biến đổi và dễ thấy nhất là đến nay đã có 5 chữ cái Hy Lạp được dùng để đặt tên cho chúng, gồm Alpha, Beta, Gamma, Delta và Lambda.
Theo tờ South China Morning Post, có thể nhìn vào lịch sử của những đại dịch trước đây để nhận định các kịch bản của đại dịch Covid-19, nhưng chưa có gì chắc chắn về mối đe dọa của các biến thể mới gây ra.
Các chuyên gia cho rằng virus Sars-CoV-2 sẽ tiếp tục xuất hiện ở một số dạng nhất định trong vài năm tới và không có cách nào biết được chính xác nó sẽ tiến hóa như thế nào. Tuy nhiên, không phải mọi biến thể của virus này đều nguy hiểm hơn hay đáng lo ngại hơn.
“Các biến thể Sars-CoV-2 chắc chắn sẽ xuất hiện, nhưng không phải tất cả đều tác động tiêu cực tới sức khỏe cộng đồng”, Phó Giáo sư Yvonne Su trong Chương trình bệnh truyền nhiễm mới nổi của Trường Y Duke-NUS ở Singapore cho biết. “Điều quan trọng là phải theo dõi và đánh giá các biến thể mới xuất hiện vì một trong số chúng có thể mang nguy cơ cao”.
Đến nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định có 4 “biến thể đáng lo ngại”, trong đó biến thể Delta với khả năng lây truyền gấp đôi so với virus gốc được phát hiện đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc vào cuối năm 2019.
Biến thể Delta hiện đã trở thành chủ đạo trên toàn cầu, lây lan ra ít nhất 135 quốc gia kể từ khi được phát hiện lần đầu tiên tại Ấn Độ vào tháng 10/2020.
Theo South China Morning Post, tốc độ lây lan nhanh chóng của biến thể này khiến các quốc gia thận trọng hơn trong việc nới lỏng các biện pháp hạn chế, đặc biệt là tại các nền kinh tế có mục tiêu “sạch Covid-19” - nỗ lực tận diệt virus và đóng cửa biên giới để duy trì số ca nhiễm, tử vong ở mức thấp - Trung Quốc, Việt Nam, Australia và New Zealand.
WHO xác định các biến thể đáng lo ngại dựa trên “những biến đổi về mặt di truyền có thể dự đoán được và có thể ảnh hưởng tới đặc điểm của virus”, ví dụ như khả năng lây truyền, mức độ nghiêm trọng và khả năng kháng vắc xin.
Dù đã có bằng chứng cho thấy biến thể Delta dễ lây nhiễm hơn cho những người đã tiêm vắc xin so với virus gốc tìm thấy ở Vũ Hán, đến nay chưa có biến thể nào được chứng minh là làm giảm hiệu quả của vắc xin trong việc ngăn bệnh tình trở nặng và tử vong.
Tại Anh, nơi 75% người trên 18 tuổi đã được tiêm vắc xin, số ca Covid-19 nhập viện và tử vong đã giảm xuống chỉ bằng một phần rất nhỏ so với lúc đỉnh dịch, dù nước này vẫn ghi nhận hàng chục nghìn ca nhiễm mới mỗi ngày trong vài tuần gần đây. Theo dữ liệu của Bộ Y tế Anh, trong khoảng thời gian từ 19/7 - 2/8, chỉ có 512 người đã tiêm vắc xin đầy đủ nhập viện vì Covid-19. Trong khi đó, vào đỉnh dịch hồi tháng 1, bình quân mỗi ngày Anh có gần 39.000 ca nhập viện.
Dựa trên giả thuyết về sự đánh đổi giữa lây nhiễm và độc lực của virus, một số chuyên gia dự báo rằng virus Sars-CoV-2 có thể sẽ bớt độc lực - bớt nguy hiểm hơn - theo thời gian.
Theo giả thuyết gây tranh cãi trong cộng đồng khoa học này, sự tăng độc lực sẽ đi liền với sự suy giảm trong khả năng lây nhiễm bởi nếu vật chủ tử vong thì virus không thể lan rộng.
Theo giáo sư về virus Polly Roy của Trường Y học nhiệt đới & Vệ sinh dịch tễ London, hầu hết các loại virus tiến hóa dần “theo thời gian theo hướng có lợi cho virus”, tức là không để mất vật chủ.
“Không thể đoán trước mốc thời gian nhưng hầu hết các đại dịch trước đây đều kết thúc sau vài năm. Hầu hết biến thể sẽ không gây tác động quá nhiều tới các loại vắc xin hiện tại và vẫn có thể được kiểm soát bằng việc tiêm chủng. Vì vậy, chúng ta chẳng việc gì phải hoảng sợ”, bà Roy cho biết. “Đến nay, những biến đổi của virus diễn ra không quá mạnh mẽ và vẫn giữ nguyên các yếu tố căn bản - đó là lây nhiễm sang cùng loại tế bào và gây ra cùng một loại bệnh”.
Một số nhà khoa học đã xem xét các bằng chứng về xu hướng của virus SARS-CoV-2 khi so sánh với sự tiến hóa của một trong các loại virus corona gây bệnh cảm lạnh thông thường. Năm 2020, các nhà nghiên cứu tại Đại học Leuven (Bỉ) đã theo dõi thời điểm virus corona OC43 lây từ gia súc sang con người trong đại dịch toàn cầu năm 1889-1890 khiến khoảng 1 triệu người thiệt mạng.
"Có khả năng khi virus trở nên dễ lây nhiễm hơn, nó cũng ít gây bệnh nghiêm trọng hơn. Có nhiều điểm tương đồng giữa virus cúm và virus corona. Đó là ở thời điểm ban đầu, khi lây từ động vật sang người, virus gây ra triệu chứng nghiêm trọng và tử vong. Nhưng khi virus lan rộng và biến đổi theo thời gian, khả năng gây bệnh nặng của nó giảm đi. Điều này có lẽ cũng giống với trường hợp của virus corona gây bệnh cảm lạnh OC43", ông Lawrence Young, nhà virus học tại Trường Y Warwick phân tích.
Theo ông Young, khi thế giới đối mặt với thời khắc "mong manh", việc hoảng sợ về các biến thể chẳng giúp ích gì và con người rốt cuộc sẽ phải học cách sống chung với virus.
Tuy vậy, một số chuyên gia khác cảnh báo rằng các biến thể mới có thể kháng vắc xin. Trong cuộc khảo sát với 77 nhà dịch tễ học của "Liên minh vắc xin cho tất cả mọi người" hồi tháng 3, gần 70% cho biết họ tin rằng virus SARS-CoV-2 sẽ biến đổi đến mức vô hiệu hóa vắc xin thế hệ đầu tiên trong vòng một năm tới hoặc sớm hơn.
Nikolaus Osterrieder, Hiệu trưởng trường Thú y và Khoa học đời sống thuộc Đại học Thành phố Hồng Kông, cho biết kinh nghiệm trước đây cho thấy các biến thể sẽ trở nên dễ lây lan hơn và có khả năng kháng vắc xin.
“Nói một cách đơn giản, virus chẳng được lợi gì khi tăng độc lực, chúng chỉ ‘quan tâm’ đến việc tồn tại và lây lan. Vì thế, điều quan trọng của virus không phải là trở nên nguy hiểm hay ít nguy hiểm hơn, mà là làm sao để lây lan hiệu quả. Nhìn chung, virus đánh đổi giữa việc lây nhiễm và độc lực để đạt được sự cân bằng", ông Osterrieder cho biết.
Dù vậy, ông cho rằng, sự xuất hiện của các biến thể mới cũng thay đổi được việc xã hội cần phải học cách sống chung với chúng.
“Chúng ta cần chuyển sự quan tâm từ 'số ca mắc' sang giảm ‘gánh nặng bệnh tật’”, ông Osterrieder nhấn mạnh.
Trong khi đó, Phó Giáo sư Su của Trường Y thuộc Đại học Quốc gia Singapore, cho rằng không có nhiều bằng chứng cho thấy virus giảm độc lực theo thời gian và việc dịch bệnh bớt nguy hiểm hơn là bởi miễn dịch tăng lên nhờ từng khỏi bệnh hoặc tiêm vắc xin.
“Tỷ lệ tiêm vắc xin cao là nhân tố then chốt để trở lại cuộc sống bình thường. Nếu muốn sống chung với virus, chúng ta phải tăng tỷ lệ tiêm vắc xin”, bà Su nhấn mạnh.