Các chỉ báo kỹ thuật là những công cụ hữu ích giúp các nhà đầu tư phân tích biểu đồ và đầu tư theo chuyển động của giá hiệu quả hơn.
Các chỉ báo kỹ thuật là những công cụ hữu ích giúp các nhà đầu tư phân tích biểu đồ và đầu tư theo chuyển động của giá hiệu quả hơn.
Loại chỉ báo này được tạo ra nhằm giúp các nhà đầu tư, giao dịch nắm được thông tin về xu hướng tăng giảm của các cặp tiền tệ. Chỉ báo xu hướng có thể cho nhà đầu tư biết rằng liệu xu hướng đó có đang tồn tại thực sự hay không và mạnh hay yếu.
Chỉ báo xu hướng có 3 chỉ báo “con” khác, đó là: chỉ báo đường trung bình MA; chỉ báo Ichimoku và chỉ báo ADX.
Moving Average Indicator là một chỉ báo kỹ thuật được sử dụng để tính trung bình giá của một cặp tiền tệ trong khoảng thời gian.
Đường MA chỉ ra một hay nhiều dấu hiệu cụ thể hơn về hướng chuyển động của cặp tiền tệ: lên, xuống hay đi ngang. Có nhiều loại đường trung bình khác nhau để nhà giao dịch có thể lựa chọn, trong đó SMA - Đường trung bình động đơn giản và EMA - Đường trung bình lũy thừa là phổ biến hơn cả.
Đây là một chỉ báo xu hướng nhìn thoáng qua tưởng rất phức tạp nhưng bản chất của chỉ báo Ichimoku hết sức đơn giản.
Đối với chỉ báo Ichimoku - một chỉ báo có nguồn gốc từ Nhật Bản được tạo ra với mục đích trở thành công cụ độc lập nhằm hiển thị xu hướng hiện tại; xác định các mức hỗ trợ và kháng cự và thông tin đến nhà đầu tư khi nào xu hướng có thể đảo chiều.
ADX là chỉ báo sẽ không cung cấp cho nhà đầu tư biết về xu hướng giá nhưng sẽ thông tin cho nhà đầu tư, nhà giao dịch về xu hướng thị trường.
Chính đặc điểm này giúp chỉ báo ADX trở thành một bộ lọc hoàn hảo cho các chiến lược giao dịch trong thị trường đi ngang hoặc có tiềm năng thành xu hướng, thông qua việc đảm bảo rằng nhà đầu tư giao dịch đúng điều kiện thị trường hiện tại.
Xem thêm: Phân tích chứng khoán (Security analysis) là gì? Các phương pháp phân tích chứng khoán
Các chỉ báo động lượng sẽ đưa cho các nhà giao dịch ý tưởng về động lượng hiện tại của một cặp tiền tệ cụ thể.
Cụ thể, khi giá tăng cao hơn thì các chỉ báo động lượng sẽ di chuyển lên cao; ngược lại giá giảm xuống thấp hơn thì các chỉ báo động lượng sẽ di chuyển thấp hơn. Và một khi chỉ báo động lượng đạt mức cực đoan như quá bán và quá mua, giá có thể sẽ quay trở lại mức trung bình sau đó.
Tuy nhiên không vì chỉ báo động lượng cực đoan mà các nhà đầu tư vội kết luận giá đang tạo đỉnh hay đáy mà nên kết hợp cùng các dấu hiệu rõ ràng khác trong giao dịch.
Chỉ báo động lượng gồm 4 loại chỉ báo khác, cụ thể:
Loại chỉ báo này được cho là chỉ báo động lượng được sử dụng nhiều nhất. Một yếu tố quan trọng trong công thức của chỉ báo này chính là hệ số giữa trung bình các mức tăng và giảm tính trong 14 phiên giao dịch gần nhất.
Chỉ số RSI bị ràng buộc trong khoảng từ 0 đến 100 và nếu trên ức 70 sẽ được coi là quá mua và quá bán khi dưới mức 30. Vì vậy, các nhà giao dịch thường tìm kiếm cơ hội bán khi chỉ báo này ở mức 70 được cắt từ phía trên xuống và cơ hội mua khi mức 30 được cắt từ phía dưới lên.
Thông qua loại chỉ báo này, các nhà giao dịch được cung cấp một cách tiếp cận khác để tính toán động lượng giá bằng cách xác định khoảng cách giữa giá hiện tại và giá thấp nhất trong số X (tùy chọn) phiên giao dịch gần nhất.
Khoảng cách này tiếp tục được chia cho hiệu giữa giá cao nhất và giá thấp nhất trong cùng X phiên giao dịch đó. Kết quả là sẽ có 2 đường được %K là giá trị của chỉ báo Stochastic, còn đường %D là đường trung bình trong N phiên giao dịch tùy chọn của đường %K.
Chỉ số Kênh Hàng hóa (Commodity Channel Index) có sự khác biệt khi so sánh với nhiều chỉ báo động lượng khác bởi CCI không có giới hạn về mức độ cao hay thấp nhất.
Mức trung tâm của chỉ báo là 0; song song đó là các mức quá mua và quá bán bắt đầu từ +100 và -100. Các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm cơ hội bán khi chỉ báo này cắt mức +100 từ trên xuống và mua khi cắt mức -100 từ dưới lên.
MACD có nhiệm vụ theo dõi sự khác biệt giữa hai đường EMA là EMA 12 phiên và 26 EMA phiên.
Hiệu của 2 đường EMA này sẽ được biểu thị trên một biểu đồ phụ (được gọi là đường MACD) với đường EMA 9 phiên của MACD được vẽ trực tiếp trên cùng biểu đồ (gọi là đường tín hiệu).
Từ đó, các nhà đầu tư sẽ tìm cách mua khi đường MACD cắt lên trên đường tín hiệu và tìm cách bán khi đường MACD cắt xuống dưới đường tín hiệu.
Bên cạnh đó, nhà giao dịch còn các cơ hội để giao dịch theo phân kỳ giữa MACD và giá, hay xu hướng của giá có thể thay đổi khi MACD tăng/giảm trên/dưới mức 0.
Xem thêm: Dự báo về bức tranh thị trường tài chính toàn cầu năm 2022
Chỉ báo này được biểu thị qua ba dải lên trên biểu đồ giá.
Cụ thể, dải giữa là một đường trung bình động đơn giản trong 20 phiên (SMA20), dải trên và dưới được vẽ bằng hai độ lệch chuẩn trên và dưới SMA 20, đồng nghĩa với việc khi giá càng biến động, thì độ lớn của dải băng sẽ càng tăng/mở rộng ra.
Điều này đã giúp Bollinger Bands là chỉ báo được ứng dụng phổ biến trong các loại tài sản khác nhau bất kể hoạt động như nào.
Chỉ báo ATR (Average True Range) có phạm vi dao động trung bình thực, cung cấp cho nhà đầu tư biết được khoảng cách trung bình giữa mức giá cao nhất và giá thấp nhất trên số phiên gần nhất (thông thường là 14 phiên).
Đặc biệt, chỉ báo ATR được trình bày dưới dạng píp, khi ATR càng cao thì cặp tiền càng có xu hướng biến động mạnh và ngược lại. Điều này giúp cho ATR trở thành một công cụ lý tưởng để đo lường biến động thị trường.
Hỗ trợ và kháng cự là yếu tố then chốt trong phân tích kỹ thuật và chúng đề cập đến các mức giá trên biểu đồ tạo thành các hỗ trợ và rào cản khiến giá của tài sản được "đẩy" theo một hướng nhất định.
Điểm Pivot (Pivot Point) là một trong nhiều công cụ được sử dụng rộng rãi nhất trêntất cả các thị trường bao gồm chứng khoán, hàng hóa và đặc biệt là Forex. Chúng được tính theo các công thức từ giá cao, giá thấp và giá đóng cửa của phiên trước đó. Các nhà giao dịch đưa các mức này làm hỗ trợ và kháng cự tiềm năng, một mức mà giá khó có thể vượt qua.
Xem thêm: Phương pháp ứng dụng điểm Pivot Point trong đầu tư
Kênh Donchian bao gồm đường trên và dưới, cho biết các mức giá cao và thấp trong một khoảng thời gian N phiên. Các đường này có thể hoạt động như hỗ trợ hoặc kháng cự nếu giá tiếp xúc lại dải trên hoặc dưới.