Cùng Cafedautu.vn tìm hiểu khái niệm Dự trữ ngân hàng là gì? Đặc điểm, công thức tính dự trữ ngân hàng và tỷ lệ dự trữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cùng Cafedautu.vn tìm hiểu khái niệm Dự trữ ngân hàng là gì? Đặc điểm, công thức tính dự trữ ngân hàng và tỷ lệ dự trữ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Dự trữ ngân hàng (Bank Reserves) là mức tiền mặt tối thiểu mà các tổ chức tài chính phải giữ lại để dự phòng các chi phí và thanh toán các khoản phát sinh. Các yêu cầu về dự trữ tiền mặt tối thiểu đối với các tổ chức tài chính ở mỗi quốc gia do ngân hàng trung ương của quốc gia đó quy định.
Ví dụ, Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Tài chính - ngân sách (bao gồm: Ngân sách nhà nước, thuế, phí, lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước…)
Dự trữ của ngân hàng được đặt ra như một quy định dùng để đảm bảo rằng các tổ chức tài chính lớn có đủ thanh khoản cho các khoản rút tiền và thanh toán lãi suất. Đồng thời, đáp ứng kịp thời những tác động của các điều kiện thị trường.
Dự trữ tiền mặt tối thiểu thường được đặt dưới dạng tỷ lệ phần trăm cố định từ số tiền gửi của ngân hàng và có thể được tính bằng tỷ lệ dự trữ. Ví dụ: nếu một tổ chức tài chính giữ 1.000.000 USD tiền gửi và tỷ lệ dự trữ được đặt ở mức 10% thì mức dự trữ tiền mặt tối thiểu mà tổ chức tài chính cần duy trì là 100.000 USD (1.000.000 USD x 10%).
=> Xem thêm: Có 14 tỷ trong tay, nên gửi ngân hàng nào để có lãi cao nhất?
* Yêu cầu dự trữ = Tỷ lệ dự trữ x Tổng tiền gửi
Trong một số trường hợp, các tổ chức tài chính không thể tự mình đáp ứng yêu cầu dự trữ thì trong hoàn cảnh đó, họ có thể vay từ các tổ chức tài chính khác có khoản dự trữ vượt mức với lãi suất qua đêm. Tỷ giá qua đêm hay tỷ giá ngân hàng là tỷ giá mà các tổ chức tài chính thường hay vay lẫn nhau. Tỷ giá này gần bằng hoặc bằng với tỷ giá mục tiêu do ngân hàng trung ương ở mỗi quốc gia đặt ra.
Các ngân hàng trung ương ở mỗi quốc gia có trách nhiệm thiết lập tỷ lệ dự trữ. Mặc dù mỗi quốc gia tuân theo một khuôn khổ khác nhau để thiết lập tỷ lệ dự trữ nhưng tiêu chí chính là quy mô và số lượng tiền gửi. Các ngân hàng có tài khoản lớn hơn phải chịu các yêu cầu về tỷ lệ dự trữ cao hơn.
Các ngân hàng gộp lại thành một nhóm được xác định trước dựa trên quy mô và tầm quan trọng tổng thể của ngân hàng đó đối với nền kinh tế. Mỗi nhóm ngân hàng sẽ có một tỷ lệ dự trữ khác nhau nên tỷ lệ dự trữ cho một ngân hàng cụ thể sẽ phụ thuộc vào phân loại ngân hàng đó.
=> Xem thêm: Lãi suất ngân hàng giảm sốc: Đầu tư vào đâu sinh lời nhiều nhất?
Các ngân hàng trung ương trên toàn cầu sử dụng tỷ lệ dự trữ như một công cụ chính để thực hiện chính sách tiền tệ và kiểm soát cung tiền và lãi suất. Một sự thay đổi trong yêu cầu về tỷ lệ dự trữ cũng có thể nói lên rất nhiều điều về chính sách tiền tệ mà các ngân hàng trung ương có kế hoạch thực hiện trong tương lai gần.
Tỷ lệ dự trữ thấp hơn có nghĩa là các ngân hàng có nhiều vốn hơn để cho vay. Nó có nghĩa là cung tiền trong nền kinh tế tăng lên. Khi mức cung tiền tăng thì lãi suất sẽ giảm. Tương tự, tỷ lệ dự trữ cao hơn dẫn đến giảm cung tiền và tăng lãi suất.
Trong khi các ngân hàng trung ương đặt ra tỷ lệ dự trữ mục tiêu họ không thể buộc các ngân hàng thực hiện theo tỷ lệ. Tuy nhiên, họ có thể gián tiếp kiểm soát lãi suất bằng cách sửa đổi các yêu cầu dự trữ và thay đổi cung tiền trong nền kinh tế. Trong thời kỳ suy thoái, các ngân hàng trung ương có thể vực dậy nền kinh tế bằng cách giảm tỷ lệ dự trữ. Làm như vậy sẽ làm tăng cung tiền trong nền kinh tế và giảm lãi suất, điều này sẽ thúc đẩy chi tiêu và đầu tư vào nền kinh tế.
Tương tự, để ngăn nền kinh tế quá nóng trong thời kỳ lạm phát, các ngân hàng trung ương có thể tăng yêu cầu dự trữ cho các ngân hàng. Dẫn đến giảm cung tiền và tăng lãi suất, ổn định nền kinh tế.
=> Xem thêm: Ngân hàng Trung ương châu Âu duy trì lãi suất thấp kỷ lục
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo thống kê đến 16/4/2021, tín dụng nền kinh tế tăng trưởng mức 3,34% so với cuối năm 2020. Các tổ chức tín dụng cũng đang quyết liệt triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân cùng với doanh nghiệp khắc phục những khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 5/4, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 262.000 khách hàng với dư nợ khoảng 357.000 tỷ đồng. Đồng thời, miễn giảm, hạ lãi suất cho hơn 663.000 khách hàng với dư nợ rơi vào khoảng 1,27 triệu tỷ đồng, cho vay mới lãi suất ưu đãi mới. Tổng doanh số lũy kế từ ngày 23/1/2020 đến nay đã đạt hơn 3,16 triệu tỷ đồng cho hơn 456.000 khách hàng.