Cổ phiếu loại A, tên tiếng Anh là Class A share. Đây là một hạng mục cổ phiếu trong nhóm quỹ của một quỹ tương hỗ đa hạng mục bên cạnh cổ phiếu loại B và loại C.
Cổ phiếu loại A, tên tiếng Anh là Class A share. Đây là một hạng mục cổ phiếu trong nhóm quỹ của một quỹ tương hỗ đa hạng mục bên cạnh cổ phiếu loại B và loại C.
Cổ phiếu loại A là một loại cổ phiếu phổ thông và thường được trao cho đội ngũ quản lý của công ty.
Nếu xét tới quyền biểu quyết thì quyền biểu quyết của loại cổ phiếu này thường lớn hơn cổ phiếu loại B; ví dụ cổ phiếu loại A có 5 quyền biểu quyết thì cổ phiếu loại B chỉ có duy nhất một quyền biểu quyết.
Tuy nhiên, không có bất kỳ yêu cầu pháp lý nào về việc các doanh nghiệp phải cấu trúc cổ phiếu theo quyền biểu quyết loại A lớn hơn loại B. Lấy ví dụ công ty Meta (trước đây là Facebook) đã trao nhiều quyền biểu quyết hơn cho cổ phiếu loại B. Trong bất kể mọi trường hợp, các loại cổ phiếu với nhiều quyền biểu quyết hơn sẽ được dành riêng cho đội quản lý của doanh nghiệp đó.
Xem thêm: Cổ phiếu sinh đôi (Siamese shares) là gì? Cách thức hoạt động cổ phiếu sinh đôi
Cổ phiếu loại A thường được sử dụng để cung cấp cho đội quản lý của công ty quyền biểu quyết trên thị trường chứng khoán công đầy biến động. Giả sử nếu loại cổ phiếu này có giá trị biểu quyết lớn tính trên 01 cổ phiếu thì điều này sẽ giúp các nhà quản lý cấp cao, nhân sự cấp C và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát.
Nếu cổ phiếu loại A không tồn tại thì việc kiếm đủ cổ phiếu nhằm mục đích kiểm soát doanh nghiệp sẽ trở nên dễ dàng hơn đối với các nhà đầu tư bên ngoài. Do đó, sự xuất hiện của cổ phiếu loại A cùng với quyền biểu quyết đã đảm bảo không để tình trạng bất lợi như trên xảy ra.
Hơn nữa, cổ phiếu loại A truyền thống thông thường đều mang đến các lợi ích khác nhau ngoài các lợi ích cơ bản cho các nhà cổ đông. Các lợi ích bao gồm như là ưu tiên về thanh khoản cổ tức cũng như gia tăng quyền biểu quyết, điều này có nghĩa rằng những người sở hữu cổ phiếu loại A sẽ được thanh toán đầu tiên khi công ty trả cổ tức cũng được thanh toán đầu tiên khi xuất cảnh.
Ví dụ, công ty A đang nợ công ty B và được bán cho một công ty cổ phần có quy mô lớn hơn thì người đầu tiên được trả nợ chắc chắn là công ty B (chủ nợ) cho đến khi khoản nợ được thanh toán đầy đủ; tiếp đó người nắm giữ cổ phiếu loại A của công ty A sẽ được thanh toán. Sau đó, cổ đông của cổ phiếu loại B và loại C sẽ được thanh toán sau.
Ngoài ra, cổ phiếu loại A có thể được chuyển đổi thành nhiều cổ phiếu phổ thông. Cụ thể hơn, nếu doanh nghiệp được bán với mức giá 5 USD/cổ phiếu và CEO công ty sở hữu 100 cổ phiếu loại A có thể quy đổi thành 500 cổ phiếu phổ thông, đồng nghĩa với việc CEO sẽ thu về 2.500 USD. Sau khi tất cả các cổ đông hạng A được thanh toán, cổ đông phổ thông sẽ được thanh toán số tiền còn lại.
Đặc biệt, cổ phiếu loại A không được bán công khai và cũng không được giao dịch bởi chủ sở hữu cổ phiếu. Xét trên khía cạnh lý thuyết, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ quản lý của công ty và nhân sự quản lý chủ chốt tập trung vào mục tiêu lâu dài của tổ chức thay vì phải lo lắng về các vấn đề có thể nảy sinh nếu loại cổ phiếu này được giao dịch.
Cổ phiếu loại A truyền thống chỉ đơn giản là loại cổ phiếu mà mọi người thường nghĩ tới khi nhắc tới cổ phiếu loại A. Đáng chú ý, nhân viên nội bộ mà sở hữu cổ phiếu loại A truyền thống thường có nhiều đặc ân và quyền biểu quyết hơn.
Loại cổ phiếu này thuộc sở hữu của đại công chúng, được giao dịch trên thị trường chung và mang một phiếu bầu.
Tại đây, những người trong cuộc thường kiểm soát cổ phiếu loại B, có quyền biểu quyết gấp 10 lần và quan trọng là không được giao dịch trên thị trường chứng khoán công khai. Cuối cùng, cổ phiếu loại C sẽ được sở hữu công khai nhưng không có bất kỳ quyền biểu quyết nào.
Cơ chế cổ phiếu như trên được nhìn thấy rõ ràng nhất tại tập đoàn Google, nếu xét trong phạm vi công ty công nghệ.
Xem thêm: Startup tiền điện tử do Google đầu tư được định giá 8 tỷ USD
Theo lý thuyết, công chúng sẽ là người nắm giữ và giao dịch cổ phiếu này; tuy nhiên, các nhà đầu tư cá nhân thường không mua được vì giá trị của chúng khá cao.
Thay vì chia tách cổ phiếu (Stock split), các công ty sẽ tạo ra cổ phiếu loại B và bán chúng với mức giá chỉ bằng một phần nhỏ so với cổ phiếu loại A; hơn nữa, quyền biểu quyết của cổ phiếu loại B so với loại A cũng rất hạn chế.
Ví dụ như cổ phiếu loại A trị giá 3.000 USD và quyền biểu quyết lên đến 100 phiếu bầu trong khi cổ phiếu loại B có giá trị 120 USD nhưng chỉ có duy nhất 1 quyền biểu quyết.
Xem thêm: Cổ phiếu LUPA là gì? Điểm mặt 4 công ty sở hữu cổ phiếu LUPA