Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang dần chậm lại khi các Ngân hàng Trung ương tiếp tục tăng lãi nhằm hạ nhiệt lạm phát đang nóng lên từng ngày ở hầu hết các khu vực trên toàn cầu.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang dần chậm lại khi các Ngân hàng Trung ương tiếp tục tăng lãi nhằm hạ nhiệt lạm phát đang nóng lên từng ngày ở hầu hết các khu vực trên toàn cầu.
Trước một loạt những tin tức tích cực trong vài ngày gần đây, tâm lý của các nhà đầu tư đã được cải thiện một cách đáng kể.
Kể từ đầu tháng 10 vừa qua, chứng khoán châu Âu đồng loạt tăng điểm, đồng thời nhiều người đã tuyên bố rằng, cuộc khủng hoảng năng lượng chuẩn bị sớm kết thúc. Tương tự đối với thị trường Trung Quốc, chứng khoán khu vực này cũng tăng vọt khi có thông tin truyền tai rằng Chủ tịch Tập Cận Bình sẽ từ bỏ chính sách zero-Covid.
Bên cạnh đó, ngày 10/11, sau khi có tin lạm phát giá tiêu dùng của Mỹ thấp hơn dự kiến của các nhà kinh tế, chỉ số Nasdaq nhảy vọt 7%, ghi nhận một trong những phiên tăng điểm mạnh nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu lại đối nghịch hoàn toàn so với các tín hiệu trên. Nền kinh tế đang chậm lại trong lúc các ngân hàng trung ương tăng lãi suất để chiến đấu với lạm phát.
Dù Mỹ báo cáo dữ liệu tháng 10 tốt hơn dự kiến, hiếm có bằng chứng nào cho thấy lạm phát đã bị đánh bại. Ngược lại, lạm phát lại đang lan rộng hơn tại nhiều nơi trên thế giới.
Phần lớn năm 2022, thế giới đều lo ngại về một cuộc suy thoái. Vào tháng 6, lượt tìm kiếm từ khóa “suy thoái” trên Google đã đạt mức cao kỷ lục. Nhưng trong một thời gian dài, suy thoái vẫn chưa đến.
GDP trung bình của các nước giàu tăng khoảng 1,3% từ cuối năm 2021 đến quý III năm nay. Trong 9 tháng đầu năm, tỷ lệ thất nghiệp trung bình của OECD, nhóm các nước chiếm khoảng 60% GDP thế giới, giảm gần 1 điểm %. Chi tiêu tiêu dùng vẫn mạnh mẽ, các nhà hàng, khách sạn, máy bay trên khắp thế giới đều đông nghẹt khách.
Nhưng hiện tại, thực tế đã bắt kịp với dự đoán. Nhà kinh tế Claudia Sahm gợi ý rằng suy thoái đến gần khi trung bình tỷ lệ thất nghiệp trong ba tháng qua tăng ít nhất 0,5 điểm % so với mức thấp nhất trong năm trước đó.
“Quy luật” của nhà kinh tế Sahm còn chỉ ra một sự thật quan trọng khác. Các nền kinh tế khác nhau di chuyển với tốc độ khác nhau.
Nhiều quốc gia như Úc và Tây Ban Nha vẫn đang tăng trưởng tốt nhưng nhiều nước khác lại phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức.
Điển hình như Vương quốc Anh, quốc gia này gần như chắc chắn đang ở trong suy thoái. Hay ở Đức, giá năng lượng cao ngất ngưởng buộc nhiều công ty công nghiệp phải đóng cửa và đây có thể là quốc gia gặp nhiều khó khăn nhất trong số các nước giàu.
Xem thêm: Vương quốc Anh trên bờ vực suy thoái sau khi nền kinh tế giảm 0,2% trong quý III
Suy thoái sẽ nghiêm trọng đến mức nào phần lớn phụ thuộc vào quyết định tăng giảm lãi suất của các Ngân hàng Trung ương.
Ông Philip Lane, nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), cho hay: “Chúng tôi biết rằng lãi suất tăng sẽ làm giảm nhu cầu, chúng tôi sẽ không giả vờ rằng quá trình này không gây ra chút đau đớn nào”.
Cả lý thuyết và dữ liệu kinh tế trong bảy thập kỷ qua đều cho thấy rằng GDP giảm có liên quan đến tốc độ sụt giảm của lạm phát. Tuy nhiên, vì chính sách tiền tệ thường có độ trễ nên các Ngân hàng Trung ương có thể sẽ phải gây ra nhiều tổn thương cho tăng trưởng kinh tế hơn những gì họ dự kiến.
Ở một số quốc gia, giá năng lượng và lương thực thấp hơn đang kéo tỷ lệ lạm phát chung xuống nhưng nhìn chung, giá cả đang không đi theo hướng mà các Ngân hàng Trung ương mong muốn.
Tại hầu hết các nước, lạm phát lõi đang gia tăng. Trong cả ba chiều – độ rộng, lương và kỳ vọng - lạm phát của các nước giàu đã bám rễ sâu hơn vào nền kinh tế thay vì yếu đi.
Bắt đầu với độ rộng. Khi lạm phát bắt đầu gia tăng vào năm ngoái, tình trạng này chỉ giới hạn ở một số ít hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, áp lực giá cả của Mỹ đến từ ô tô đã qua sử dụng, ở Nhật Bản là lương thực và châu Âu là năng lượng.
Điều này khiến nhiều nhà quan sát lầm tưởng rằng một khi giá cả những mặt hàng này ngừng tăng, lạm phát tổng thể sẽ trở về bình thường.
Thế nhưng, lạm phát lại ngày càng lan rộng.
Tờ Economist phân tích rổ hàng hóa dùng để đo lường lạm phát của 36 nước, chủ yếu gồm toàn nước giàu. Tháng 6/2021, tỷ lệ các mặt hàng trong một rổ điển hình có giá tăng hơn 4% so với cùng kỳ năm trước là 60%. Con số này hiện nay là 67%.
Chiều thứ hai về tiền lương. Lương là chỉ báo cho hướng đi của lạm phát tương lai. Khi chi phí lao động tăng, doanh nghiệp sẽ chuyển chúng sang phía người tiêu dùng bằng cách tăng giá sản phẩm, dịch vụ.
Cụ thể, những người lạc quan cho rằng dữ liệu của Mỹ đã chỉ ra một số bằng chứng cho thấy tăng trưởng tiền lương đang chậm lại. Tăng trưởng lương ở Anh cũng có vẻ đã lên đến đỉnh.
Ở chiều ngược lại, một số quốc gia không được như vậy.
JPMorgan đã đưa ra kết luận từ nghiên cứu mới của hai nhà kinh tế Pawel Adrjan và Reamonn Lydon là, tiền lương danh nghĩa trong các bài đăng tuyển dụng ở khu vực đồng Euro đã tăng 5% so với cùng kỳ năm trước, và vẫn đang tiếp tục tăng.
Tại Đức, công đoàn lớn của các công nhân kỹ thuật và kim loại là IG Metall đang yêu cầu tăng lương tới 8%. Ở New Zealand, Đan Mạch và Thụy Điển, tăng trưởng lương vẫn chưa chậm lại.
Cuối cùng là sự kỳ vọng. Thông qua một mô hình riêng, hãng tư vấn Alternative Macro Signals đã phân tích hàng triệu bài báo bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau để xây dựng “chỉ số áp lực giá cả theo tin tức”.
Chỉ số này đã đưa ra các dự báo khá sát với số liệu lạm phát chính thức và hiện vẫn đang đưa ra con số khá cao. Dữ liệu tìm kiếm từ Google cũng đưa ra bằng chứng tương tự, cho thấy mối quan tâm của công chúng toàn cầu đến lạm phát đang ở mức cao nhất từ trước đến nay.
Theo khảo sát của Fed chi nhánh Cleveland, công ty dữ liệu Morning Consult và giáo sư Raphael Schoenle của Đại học Brandeis, tại một quốc gia điển hình, công chúng dự đoán giá cả sẽ tăng 5% trong năm tới, giống như những tháng trước.
Những người mang quan điểm lạc quan hy vọng rằng giá cả sẽ gây bất ngờ và giảm tốc sớm hơn kỳ vọng. Nhưng có vẻ khả năng cao hơn là lạm phát sẽ tiếp tục cứng đầu dù nền kinh tế có chậm lại.
Xem thêm: IMF đưa ra dự báo u ám về kinh tế toàn cầu
Số ca Covid-19 tại Việt Nam Lây nhiễm cộng đồng từ 27/4